Vân Chàng Nam Giang

   

Ảnh : Hương án thờ Đỗ Bảo và Nguyễn Thận tôn thần

 Đình làng Vân Chàng Nam Giang tọa lạc ở tổ dân phố số 16, thôn Vân Chàng, thị trấn Nam Giang, huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Đình làng Vân Chàng kể từ khi khởi dựng đến nay đã trải qua nhiều lần trùng tu, tôn tạo nhưng vẫn bảo lưu được tương đối nguyên vẹn phong  cách kiến trúc nghệ thuật thế kỷ 18,19. Bên cạnh đó, tại đình còn lưu giữ được nhiều hiện vật như: ống bễ lò rèn, dao bản, ngọn đòng, ống pháo lệnh…đó là những cổ vật có giá trị, tiêu biểu cho một làng nghề truyền thống có hơn 700 năm.

   Ảnh : Hương án thờ Nguyễn Nga và Tử Hầu tôn thần

Căn cứ vào hệ thống thờ tự và nguồn tư liệu Hán Nôm hiện đang lưu giữ tại di tích như: sắc phong, câu đối, đại tự… cùng truyền thuyết dân gian tại địa phương thì đình làng Vân Chàng thờ sáu vị tổ nghề rèn từ làng Vân Chàng Hồng Lĩnh Hà Tĩnh ra truyền nghề rèn, sáu vị  có duệ hiệu là: 

                        - Phạm Nguyệt Tiên sư tôn thần.
                        - Tử Cung Tiên sư tôn thần.
                        - Tử Hầu Tiên sư tôn thần.
                        - Nguyễn Nga Tiên sư tôn thần.
                        - Nguyễn Thận Tiên sư tôn thần
                        - Đỗ Bào Tiên sư tôn thần.

Hiện nay, tại đình làng Vân Chàng còn lưu giữ 6 đạo sắc phong được ban tặng dưới triều vua Khải Định 9 (1924), các đạo sắc phong đều có nội dung ca ngợi công lao của sáu vị tổ và phong sáu vị là Dực bảo trung hưng linh phù tôn thần.
            Ngoài các đạo sắc phong, tại đình làng Vân Chàng còn lưu giữ nhiều câu đối ca ngợi công lao và sự nghiệp của Lục vị tổ sư. Tiêu biểu nhất là câu đối treo tại gian giữa  tiền đường có nội dung như sau:

“Vạn vật khúc thành thông biến nghi dân chi tổ

Bách  thế bất sĩ khai vật thành vụ chi sư”.

Dịch nghĩa:

Tạo thành vạn vật, thông suốt biến hóa làm tổ của dân

Trăm đời trông cậy, rèn đúc vật dụng, thành thầy dạy nghề.

           

Ảnh : Hương án thờ Phạm Nguyệt và Tử Cung tôn thần

Trải qua quá trình hình thành và phát triển, làng rèn Vân Chàng đến nay đã trở thành một làng nghề thủ công truyền thống nổi tiếng nhất trong tổng số hàng trăm làng nghề hiện có trên địa bàn tỉnh Nam Định. Nếu như trước đây, những người thợ rèn Vân Chàng chỉ sản xuất được một số mặt hàng đơn giản mang tính thủ công như: dao kéo, đinh ốc, cuốc xẻng, kiềng, răng cào… phục vụ nhu cầu nông nghiệp, thì ngày nay họ đã sản xuất được những sản phẩm khó, có độ tinh xảo cao như: ngòi bút máy, phụ tùng xe đạp, một số bộ phận của súng...Từ năm 1960, nghề rèn Vân Chàng dần chuyển từ thủ công lên cơ khí. Nghề rèn bằng phương pháp quai búa dần được thay thế bằng máy móc. Sản phẩm của làng rèn ngày càng đa dạng về chủng loại, đạt độ chính xác cao, tinh xảo, mẫu mã đẹp, độ bền cao, nhất là các phụ tùng xe đạp và các loại sắt thép dùng trong xây dựng. Nhiều mặt hàng đã có mặt trên khắp mọi miền đất nước và một số sản phẩm còn được xuất khẩu sang các nước trong khu vực Đông Nam Á như: Lào, Campuchia … Hiện nay, ở Vân Chàng có 90% số hộ trong làng theo nghề rèn và hầu hết đều đã cơ khí hóa, chỉ còn một số rất ít sản xuất theo phương pháp thủ công truyền thống. Người dân Vân Chàng qua bao nhiêu thế hệ luôn có những nghệ nhân được vinh danh là Bàn tay vàng, làm nên những sản phẩm đạt độ tinh xảo và kỹ thuật được Bộ Khoa học - Công nghệ đánh giá cao về chất lượng. 
            Như vậy, hơn 700 năm đã trôi qua, làng Vân Chàng hôm nay có thể coi là một làng quê giàu có, đông vui, sầm uất nhất nhì không chỉ ở trong huyện mà so với cả các huyện bạn trong tỉnh. Để có được thành quả như ngày hôm nay, trong tâm thức của người dân Vân Chàng luôn luôn ghi nhớ và trân trọng công ơn của Lục vị tổ sư - những người đã truyền dạy nghề rèn cho dân làng Vân Chàng vào những năm cuối của thế kỷ 13, đầu thế kỷ 14.
            Hàng năm tại di tích đình làng Vân Chàng, nhân dân mở hội vào ngày 15 tháng 11 âm lịch và theo định kỳ thì 5 năm mở hội lớn một lần. 
            Mở đầu buổi lễ, đại diện của Ban tổ chức lễ hội đọc diễn văn khai mạc và chúc văn ôn lại tiểu sử, công lao của Lục vị Tổ sư. Tiếp đó, các đoàn đại biểu của địa phương, khách thập phương cùng dân làng làm lễ dâng hương tế Tổ. Sau nghi thức dâng hương, các bậc cao niên dâng lễ vật lên Lục vị tổ sư gồm các sản vật mà nhân dân địa phương đó làm ra như: hương, đăng, trà, quả, thực (xôi, thịt)…Lễ vật dâng lên tuy đơn giản nhưng đó là thành quả lao động trong một năm mà người dân địa phương đã vất vả lao động, thể hiện sự nâng niu, quý trọng phẩm vật mà mình làm ra, từ đó tỏ rõ lòng thành kính, tri ân công đức đối với các vị Tổ. Sau nghi thức dâng hương, tế lễ là nghi thức rước kiệu quanh làng. Hành trình của đám rước bắt đầu xuất phát từ đình đi về hướng Tây (cách đình 500m) để rước Thành hoàng của đền Tây có duệ hiệu là: Tây Lĩnh Linh sư đại vương, sau đó quay về đền Đông (cách đình 200m về hướng Bắc) rước bài vị Thành hoàng đền Đông, rồi quay trở về đình làng. Đi đầu đám rước là đội cờ thần, tiếp đến là đội kèn trống, đội phụng nghinh, 6 cỗ kiệu của Lục vị tổ sư, bát biểu... Theo cùng đoàn rước là các hội phụ lão của làng, hội Phật tử, hội cựu chiến binh cùng các nam thanh, nữ tú và đông đảo nhân dân đến tham gia.
            Song song với những nghi thức tế lễ long trọng, hội làng còn tổ chức nhiều trò chơi dân gian đặc sắc thu hút được đông đảo nhân dân cùng khách thập phương tham gia như: kéo co, chọi gà, cờ người…
            Ngoài lễ hội lớn 5 năm tổ chức một lần thì hàng năm tại đình còn tổ chức tế lễ vào ngày 6 tháng 5 và tham gia lễ hội chợ Viềng mồng 8 tháng Giêng cùng với các đình, đền, chùa khác tại địa phương.
            Lễ hội và những sinh hoạt văn hoá tại đình làng Vân Chàng hiện nay tuy diễn ra ở phạm vi làng và đơn giản hơn về nghi lễ, song phần nào đã phản ánh được lòng biết ơn của nhân dân địa phương đối với các vị Tổ đã có công dựng làng mở ấp và truyền nghề cho dân. Đó cũng là nét đẹp văn hoá truyền thống thể hiện đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của người Việt cần được bảo tồn và phát triển.
Theo tư liệu truyền ngôn tại địa phương thì sau khi Lục vị tổ sư qua đời nhân dân đã lập đình thờ để tri ân công đức và tôn sáu vị làm Thành hoàng làng. Ngôi đình ban đầu được xây dựng trên khu đất nằm ở phía đông làng (cách vị trí ngôi đình hiện nay khoảng 500m). Sau vì dân ở đó mắc dịch bệnh nên họ đã di dời ngôi đình về vị trí hiện nay. 
            Đình làng Vân Chàng được xây dựng với quy mô lớn vào thời Hậu Lê (thế kỷ 18) và được trùng tu vào thời Nguyễn (thế kỷ 19). Dòng chữ Hán khắc trên thượng lương tòa tiền đường và trung đường xác nhận niên đại tu sửa tiền đường vào năm Ất Mùi, niên hiệu Thành Thái (1895). Ngôi đình tọa lạc trên một khu đất cao ráo rộng 1.480m2, mặt quay về hướng Nam, phía trước là trục đường liên thôn, xung quanh là khu dân cư. Trong khuôn viên đền có nhiều cây lưu niên và cây cảnh tạo không khí mát mẻ trong lành. Nhìn từ ngoài vào trong, đình gồm các thành phần kiến trúc: nghi môn, bình phong, hồ nước, sân, đền thờ 15 vị tổ dòng họ, công trình kiến trúc trung tâm và hai dãy dải vũ nội hai bên.
            Toàn bộ công trình kiến trúc đình gồm 13 gian được xây dựng trên nền đất cao ráo có mặt bằng kiểu chữ “công”. Ngoài ra ở hai bên phía trong còn có hai dãy giải vũ, mỗi dãy gồm 3 gian tạo cho toàn bộ công trình với gần 20 gian lớn nhỏ kết hợp thành kiểu kết cấu “nội công, ngoại quốc” rất hài hòa và đăng đối. 

  Nghi môn của đình gồm một cổng chính và hai cổng phụ xây theo lối cổ đẳng 2 lớp mái. Phần cổ đẳng nối giữa lớp mái trên và mái dưới nhấn nổi 4 chữ Hán: “Kỉ ân truyền nghệ”(ghi ơn truyền nghề). Dưới lớp mái tạo ba khoang cửa cuốn vòm, phân cách giữa các cổng là cột trụ vuông, giữa mỗi cột có nhấn câu đối chữ Hán ca ngợi công lao của các vị Tổ dạy nghề. Nối liền với nghi môn là hệ thống tường bao xây khép kín bảo vệ công trình.
Từ nghi môn vào đến công trình kiến trúc đình chính phải đi qua các hạng mục gồm: Bức bình phong, tiếp đến là hồ nước hình lục giác và một khoảng sân rộng được lát bằng gạch đỏ. Toàn bộ công trình kiến trúc đình gồm 13 gian được xây dựng trên nền đất cao ráo có mặt bằng kiểu chữ “công”.
Ngoài ra, ở hai bên phía trong còn có hai dãy giải vũ, mỗi dãy gồm 3 gian tạo cho toàn bộ công trình với gần 20 gian lớn nhỏ kết hợp thành kiểu kết cấu “nội công, ngoại quốc” rất hài hòa và đăng đối. 
      Tòa tiền đường có 7 gian, bộ khung được liên kết bởi bốn vì kèo kiểu ba hàng chân cột. Mỗi bộ vì bố trí ba cây cột theo kiểu chốn cột cái phía trước. cột được tạo dáng búp đòng; phần chân cột được kê trên các chân tảng đá xanh hình vuông mặt chạm gờ tròn nổi, tạo thế vững chắc cho công trình. Để tạo nên bộ khung tòa tiền đường ở đây có 3 dạng vì liên kết chủ yếu: Vì nóc, vì nách và liên kết hiên.
    Bộ cửa tiền đường được gia công bằng gỗ lim theo kiểu bức bàn chạy dọc 5 gian giữa của công trình. Khoang cửa giữa gồm 6 cánh. Bốn khoang cửa còn lại mỗi khoang 5 cánh, kích thước giống khoang cửa giữa. Toàn bộ hệ thống cửa được đặt trong khung gỗ lắp chân quay vừa tạo thế trang nghiêm kín đáo, vừa thuận tiện cho việc đóng mở.
Phần trang trí mĩ thuật tại toà tiền đường được tập trung thể hiện trên nhiều cấu kiện song tiêu biểu nhất ở các cấu kiện như: Trên hệ thống 12 cây bẩy hiên tại tiền đường đều được chạm khắc sinh động các đề tài: lá lật, lá lật hóa long, các đường chạm sắc nét, mềm mại, đầu bẩy chạm chữ “thọ” theo kiểu chữ triện. Trên các con rường và xà nách đều chạm khắc họa tiết long hóa, đan xem họa tiết lá lật. Đường nét chạm khắc trên các cấu kiện gỗ tại đây mang phong cách thời Nguyễn thế kỷ 19, với bố cục chặt chẽ, khá tinh xảo đã làm tăng thêm giá trị nghệ thuật cho công trình kiến trúc.
Trung đường có 3 gian quay dọc. Phần mái công trình lợp ngói nam với các góc đao uốn cong mềm mại. Bộ khung công trình làm bằng gỗ lim. Nâng đỡ bộ mái đao là 4 bộ vì gồm 8 cột cái và 8 cột quân cao. Cùng với đó là các cấu kiện câu đầu, xà ngang, xà dọc, bẩy hai bên liên kết chặt chẽ với nhau. Các bộ vì ở tòa trung đường cũng được gia công giống như tòa tiền đường song có phần cầu kỳ hơn. Hai bộ vì thứ nhất và thứ hai của tòa trung đường ngoài chức năng nâng đỡ hệ thống mái còn lắp dựng hệ thống cửa tạo cho không gian thờ tự được trang nghiêm kín đáo.
       Về phần trang trí mĩ thuật, ngoài các cấu kiện con rường, ván mê được chạm khắc hết sức tỉ mỉ thì trên hệ thống cánh cửa của bộ vì nách thuận (bộ vì đầu tiên ngăn cách giữa tiền đường và trung đường) cũng được các nghệ nhân chạm khắc rất công phu. Bộ cửa gồm 4 cánh, hai cánh cửa giữa đục chạm thông phong họa tiết tứ linh chầu mặt trời, hai cánh cửa hai bên chạm rồng chầu, hoa văn sóng nước. Phía ngoài bộ cánh cửa là bộ cửa võng, đỉnh trên cửa võng chạm họa tiết rồng chầu mặt trời, diềm hai bên chạm tứ linh. Toàn bộ hệ thống cánh cửa võng được sơn son thếp vàng và mang phong cách nghệ thuật thời Nguyễn, thế kỷ 19.
    Tòa hậu cung là công trình mới tôn tạo lại, được xây dựng hoàn toàn bằng chất liệu bê tông cốt thép, xây theo kiểu cổ đẳng hai lớp mái, lợp ngói nam, nền lát gạch. Mặt bằng công trình chia làm 3 gian chạy dài theo chiều ngang. Tại đây xây bệ thờ trên đặt khám, ngai và bài vị thờ Lục vị tổ sư.
Ngoài giá trị về kiến trúc nghệ thuật, tại di tích đình làng Vân Chàng còn lưu giữ một số hiện vật mang giá trị lịch sử và nghệ thuật tiêu biểu như: Một đôi ống bễ lò rèn bằng gỗ; hai nòng súng lệnh được làm bằng sắt ; một con dao bản, tương truyền cây dao bản này là của một người nông dân họ Đoàn, thôn Nhất, Thị trấn Nam Giang dùng để kêu gọi nông dân đi theo Lê Lợi chống giặc ngoại xâm. Ngoài ống bễ lò rèn được làm bằng chất liệu gỗ ra thì bốn hiện vật còn lại có chất liệu bằng sắt và đều được làm bằng phương pháp Ẩu sắt - một phương pháp rèn cổ chỉ có ở làng rèn Vân Chàng, tận dụng từ những vụn sắt được nung chín gá vào nhau dưới tay búa tài hoa của những người thợ để tạo hình đồ vật. Tương truyền, những cổ vật này đó được sản xuất từ năm 1418-1430 trong thời kỳ chống giặc Minh và đều là những vũ khí chống giặc ngoại xâm thời Lê Lợi, được các thế hệ người làng Vân Chàng cất giữ, truyền lại cho con cháu. 

   

      Ngoài giá trị về kiến trúc nghệ thuật, tại di tích đình làng Vân Chàng còn lưu giữ một số hiện vật mang giá trị lịch sử và nghệ thuật tiêu biểu như: Một đôi ống bễ lò rèn bằng gỗ; hai nòng súng lệnh được làm bằng sắt ; một con dao bản, tương truyền cây dao bản này là của một người nông dân họ Đoàn, thôn Nhất, Thị trấn Nam Giang dùng để kêu gọi nông dân đi theo Lê Lợi chống giặc ngoại xâm; ngọn đòng có kích thước dài 60cm, tương truyền xưa kia được những người lính của Lê Lợi gắn lên đầu gậy dùng để móc, giật chiến mã kẻ thù trong những trận đánh giáp lá cà... 

( Nguồn : Cổng thông tin huyện Nam Trực )
            

scrolltop